Nuôi cá rô phi bằng lồng hiện đang ngày càng được đầu tư và phát triển mạnh trong những năm gần đây. Tuy nhiên tình hình dịch bệnh do nhiều loại vi khuẩn gây ra trên cá rô phi nuôi lồng ngày càng phổ biến và phức tạp hơn. Đó là một trong những rào cản quan trọng trong việc phát triển nghề nuôi cá rô phi bằng lồng bền vững. Nhất là căn bệnh xuất huyết đốm đỏ ( hay còn gọi là bệnh viêm ruột) do vi khuẩn Aeromonas spp gây ra. Chúng khiến cho cá kém ăn hoặc bỏ ăn, nổi lờ đờ trên tầng mặt. Biện pháp phòng và cách điều trị bệnh xuất huyết đốm đỏ ở cá rô phi nuôi lồng sẽ được nói rõ trong bài viết dưới đây.
Mục Lục
Nguyên nhân gây bệnh cho cá
Bệnh xuất huyết đốm đỏ (bệnh viêm ruột) do vi khuẩn Aeromonas spp gây ra. Khi nuôi bằng hình thức công nghiệp, cá nuôi ở mật độ cao; môi trường nước nuôi bị ô nhiễm tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển mạnh. Bệnh xuất hiện quanh năm nhưng thường tập trung vào mùa xuân và mùa thu ở miền Bắc, ở miền Nam bệnh phát triển nhiều vào mùa mưa.
Dấu hiệu nhận biết cá mắc bệnh
Dấu hiệu đầu tiên là cá kém ăn hoặc bỏ ăn, nổi lờ đờ trên tầng mặt. Da cá chuyển màu tối, thân mất nhớt, khô ráp. Trên thân xuất hiện các đốm xuất huyết màu đỏ, các gốc vây cũng có hiện tượng xuất huyết. Những cá thể bị nặng có thể xuất hiện các vết loét nông hoặc sâu, trên vết loét có thể có nấm hoặc ký sinh trùng ký sinh.
Mắt lồi đục, hậu môn có thể viêm xuất huyết, bụng có thể chướng to. Các vây xơ rách, tia vây cụt dần, mang xuất huyết đỏ đậm. Giải phẫu nội tạng: Xoang bụng xuất huyết, gan tái nhợt, mật sưng to, thận sưng và xuất huyết; ruột viêm chứa nhiều dịch trong. Xoang bụng có chứa nhiều dịch nhờn mùi hôi.
Hướng dẫn cách phòng bệnh
Biện pháp phòng bệnh quan trọng nhất là không để cho động vật nuôi thủy sản bị sốc do môi trường thay đổi xấu: nhiệt độ, ôxy hòa tan, nhiễm bẩn của nước. Môi trường nước đảm bảo tốt cho đời sống của động vật thủy sản. Đối với bè nuôi cá thường xuyên treo túi vôi, mùa xuất hiện bệnh 2 tuần treo một lần, mùa khác một tháng treo 1 lần. Vôi có tác dụng khử trùng và kiềm hóa môi trường nước.
Lượng vôi tính trung bình 2 kg vôi bột/10 m3. Bè lớn treo nhiều túi và bè nhỏ treo ít túi, tập trung ở giữa lồng và phía đầu nguồn nước chảy. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm lượng Vitamin C cho vào thức ăn (với lượng 30 mg/kg cá/ngày). Trước mùa bệnh hoặc dùng thuốc có nguồn gốc thảo dược như KN – 04 – 12 của Viện Nghiên cứu NTTS I, cho cá ăn để phòng bệnh.
Cá giống đưa vào ao nuôi cần đảm bảo khỏe mạnh, đều cỡ. Không mất vây, mất vẩy, không dị hình, dị tật, không mắc bệnh hoặc không mang mầm bệnh. Trước khi đưa cá giống về ao nuôi, cần tắm cho cá bằng nước muối (NaCl). Với nồng độ 2% trong 10 – 15 phút để tiêu diệt mầm bệnh. Và cho cá ăn thức ăn đảm bảo chất lượng. Kiểm tra lồng/bè thường xuyên, không để thức ăn dư thừa nhất là sau các đợt mưa lớn hoặc thay đổi thời tiết. Phát hiện và xử lý kịp thời cá bị bệnh, không để phát triển lây lan thành dịch.
Cách điều trị
Có thể dùng một số kháng sinh, hoặc thuốc thảo mộc có tác dụng diệt khuẩn để điều trị bệnh nhiễm khuẩn máu như sau:
- Oxytetracycline để tắm cho cá giống trong thời gian 1 giờ; liều dùng theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
- Cá thịt dùng phương pháp cho ăn kháng sinh trộn với thức ăn; Sulfamethoxazol + Trimethoprim, liều dùng theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
- Thuốc phối chế KN-04-12: liều dùng 2 – 4 g/1 kg cá/ngày.
- Cho cá ăn liên tục từ 5 – 7 ngày. Riêng với kháng sinh từ ngày thứ 2 trở đi liều lượng giảm đi 1/2 so với ngày đầu.
Điều cần lưu ý khi nuôi cá rô phi lồng, bè
- Hàng ngày phải chú ý theo dõi các hiện tượng có thể xảy ra đối với cá nuôi trong lồng/bè như: cá nổi đầu do thiếu oxy;cá bị nhiễm độc do nước bị ô nhiễm, cá kém ăn. Hoặc bỏ ăn do môi trường thay đổi xấu, thức ăn kém chất lượng hoặc cá bị nhiễm bệnh.
- Kịp thời có biện pháp xử lý các hiện tượng trên bằng cách: quấy sục khí làm tăng lượng khí oxy hoà tan. Di chuyển lồng/bè ra khỏi khu vực môi trường bị ô nhiễm bẩn.
- Cho cá ăn đủ chất lượng và số lượng, loại bỏ cá bệnh ra khỏi lồng.
- Ở khu vực nuôi có bệnh xảy ra, cần cách ly những lồng bị bệnh. Bằng biện pháp kéo lồng bè xuống vị trí cuối dòng nước chảy và kịp thời chữa bệnh cho cá nuôi.